Sâu Hại

 I. SÂU HẠI CÂY LÚA:

Hình
Đặc điểm & Triệu chứng gây hại
Thuốc sử dụng
1. ỐC BƯƠU VÀNG
OBV có vỏ mỏng, vàng hơn ốc thường, ổ trứng có màu hồng tươi. OBV thuộc loại ăn tạp và sinh sản rất nhanh, ăn mầm lúa và lúa non.
Oxdie 700WP
Tea powder 150BR
Toxbait 60B
Toxbait 120B
2. BỌ TRĨ
Rất nhỏ, dài có màu nâu đen hay nâu đỏ, râu dài. Gây hại bằng cách chích hút nhựa làm cho chóp lá lúa cuốn lại, màu vàng khô.
Phironin 50SC, 800WG
Kongpi-da 700WG
3. SÂU PHAO ĐỤC BẸ
Bướm màu vàng nâu, nhỏ hơn sâu cuốn lá nhỏ, khi đậu 2 cánh xếp hình tam giác, đầu quay xuống đất. Trứng đẻ thành cụm, hai hàng, ở mặt dưới lá già, chủ yếu đẻ trên bẹ lá. Ấu trùng cắn 2 đoạn lá tạo thành phao, sống trong phao thò đầu ra đục vào thân lúa ăn phần đỉnh sinh trưởng của cây lúa. Cây lúa bị hại có nhiều vết đục trên bẹ lá gây chết lúa, sâu gây hại nặng ở ruộng ngập trũng.
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
Vitasupe 250EC
MegaShield 525EC
4. SÂU PHAO
Sâu có màu xanh lục trong suốt, đầu vàng nâu, cắn đứt lá lúa cuốn lại thành phao nổi trên mặt nước, sâu ăn mô lá chỉ để lại lớp biểu bì mỏng.
Azimex 20EC, 40EC
Phironin 50SC, 800WG
Gammalin Super 170EC
MegaShield 525EC
5. SÂU KEO
Sâu có màu nâu, trên thân có nhiều sọc và đốm đen, sống tập trung thành đàn, gây hại bằng cách ăn khuyết hay cắn đứt lá lúa.
Phironin 50SC, 800WG
Gammalin Super 170EC
Tornado 10EC
Etimex 2.6EC
MegaShield 525EC
6. RẦY NÂU
Có 2 dạng cánh: dài và ngắn. Rầy nâu tập trung ở phần gốc gần mặt nước, chích hút nhựa làm lúa bị vàng, sinh trưởng kém, nặng thì cháy rầy từng mảng. Rầy nâu truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá
Gammalin Super 170EC
Kongpi-da 700WG,
Vitasupe 250EC
Ascophy 220WP
Phironin 50SC, 800WG
MegaShield 525EC
7. SÂU ĐỤC THÂN
Sâu có màu vàng nhạt, đầu nâu, đục vào thân cây lúa ở gần mặt nước, gây ra hiện tượng héo dảnh hay bông bạc.
Phironin 800WG, 50SC
Gammalin super 170EC
Phantom 60EC
MegaShield 525EC
8. SÂU CUỐN LÁ
Sâu có màu xanh lá mạ, ửng vàng, đầu màu nâu. Sâu cuốn dọc lá lúa lại, gặm mất phần xanh, để lại những mảng xơ trắng.
Phironin 800WG, 50SC
Gammalin Super 170EC
Azimex 20EC, 40EC
Etimex 2.6EC
Tornado 10EC
9. NHỆN GIÉ
Thành trùng rất nhỏ, trong suốt, màu nâu sáng, có 4 đôi chân, sống ở phía trong của phần trên bẹ lá lúa, chích hút nhựa tạo thành những sọc nâu kéo dài hoặc chích hút bông làm hạt lúa bị lép lửng.
Azimex 20EC, 40EC
Etimex 2.6EC
Gammalin Super 170EC
Vitasupe 250EC
10. MUỖI HÀNH (SÂU NĂN)
Ấu trùng ăn tại điểm sinh trưởng làm cho đọt lúa phát triển thành ống tròn tương tự như lá hành. Ống tròn có thể dài bằng lá lúa hay rất ngắn (nên khó phát hiện). Các “chồi lá hành” không cho bông => giảm năng suất lúa.
Phironin 50SC, 800WG
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
MegaShield 525EC
11. RUỒI ĐỤC LÁ
Ruồi đẻ trứng đơn trên mặt lá, ấu trùng nở ra chui vào đọt lúa ăn bìa trong của lá đang phát triển làm mô lá bị thoái hóa, lá phát triển không hoàn thiện. Lúa kém nở bụi, chậm tăng trưởng.
Phironin 50SC, 800WG
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
Vitasupe 250EC
MegaShield 525EC
12. BỌ XÍT HÔI
Thân hình thon dài, màu xanh nâu ở lưng, vàng nâu ở bụng, râu dài. Chích hút hạt lúa đang ngậm sữa làm hạt bị lép, lửng.
Phironin 800WG, 50SC
Phantom 60EC
Tornado 10EC
MegaShield 525EC


SÂU HẠI CÂY SẦU RIÊNG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ
Hình
Đặc điểm & Triệu chứng gây hại
Thuốc sử dụng

1. RẦY NHẢY
Gây hại chủ yếu trên lá non. Lá bị hại có những chấm nhỏ màu vàng, sau đó khô và rụng hàng loạt. Rầy nhảy thải ra chất ngọt tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển.
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
Kongpi-da 700WG
Vita supe 250EC
2. SÂU ĐỤC TRÁI
Bướm đẻ trứng trên vỏ trái non, sâu nở ra chọn nơi gần cuống trái để đục vào bên trong và thải phân ra bên ngoài. Sâu đục làm cho trái bị biến dạng, mất giá trị hay bị rụng.
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
Phironin 50SC,800WG
3. RỆP SÁP PHẤN
Chủ yếu gây hại trên trái còn non, bằng cách bám vào cuống trái hoặc các rãnh giữa gai để hút nhựa, làm cho trái phát triển kém, bị biến dạng hay rụng; nấm bồ hóng phát triển.
Gammalin Super 170EC
Phantom 60EC
Kongpi-da 700WG
Vita supe 250EC
MegaShield 525EC
4. SÂU ĂN BÔNG
Sâu thuộc nhóm sâu róm, có nhiều lông, ở giữa lưng có sọc đỏ, hai bên có sọc vàng. Sâu ăn cánh hoa, nhụy đực và nhụy cái làm cho hoa rụng.
Tornado 10EC
Azimex 20EC, 40EC
Etimex 2.6EC
Phironin 50SC, 800WG
MegaShield 525EC

II. SÂU HẠI BẮP CẢI:

Sâu ăn tạp Spodoptera litura Fabricius
Họ Bướm Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vảy (Lepidoptera)
 
PHÂN BỐ VÀ KÝ CHỦ
Sâu ăn tạp là loài có phổ ký chủ rộng, phân bố hầu hết các nơi trên thế giới.
Sâu ăn tạp là một trong những loài sâu ăn lá quan trọng, là loài sâu đa thực có thể phá hại đến 290 loại cây trồng thuộc 99 họ thực vật bao gồm các loại rau đậu, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây lương thực, cây phân xanh,...
ÐẶC ÐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Bướm có chiều dài thân khoảng 20-25mm, sải cánh rộng từ 35-45mm. Cách trước màu nâu vàng, giữa cánh có vân trắng, cánh sau màu trắng óng ánh. Bướm có đời sống trung bình từ 1-2 tuần tuỳ điều kiện thức ăn. Trung bình một bướm cái có thể đẻ 300 trứng, nhưng nếu điều kiện thích hợp bướm có thể đẻ từ 900-2000 trứng. Thời gian đẻ trứng trung bình của bướm kéo dài từ 5-7 ngày đôi khi đến 10 - 12 ngày.

Thành trùng, trứng và ấu trùng sâu ăn tạp trong đất (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
Trứng có hình bán cầu, đường kính từ 0,4 - 0,5mm. Bề mặt trứng có những đường khía dọc từ đỉnh trứng xuống đến đáy và bị cắt ngang bởi những đường khía ngang tạo thành những ô nhỏ. Trứng mới nở có màu trắng vàng, sau chuyển thành màu vàng tro, lúc sắp nở có màu tro đậm. Ổ trứng có phủ lớp lông từ bụng bướm mẹ. Thời gian ủ trứng từ 4-7 ngày.
Thời gian phát triển của ấu trùng kéo dài từ 20-25 ngày, sâu có 5-6 tuổi tuỳ thuộc điều kiện môi trường. Nếu điều kiện thuận lợi sâu có thể dài từ 35-53mm, hình ống tròn. Sâu tuổi nhỏ có màu xanh lục, càng lớn sâu chuyển dần thành màu nâu đậm. Trên cơ thể có một sọc vàng sáng chạy ở hai bên hông từ đốt thứ nhất đến đốt thứ tám của bụng, mỗi đốt có một chấm đen rõ nhưng hai chấm đen ở đốt thứ nhất to nhất. Sâu càng lớn, hai chấm đen ở đốt thứ nhất càng to dần và gần như giao nhau tạo thành khoang đen trên lưng nên sâu ăn tạp còn được gọi là “sâu khoang”.
Thời gian phát triển nhộng kéo dài 7-10 ngày, kích thước dài từ 18-20mm. Nhộng sâu ăn tạp có màu xanh đọt chuối, rất mềm ngay khi mới được hình thành, sau đó chuyển dần sang màu vàng xanh, cuối cùng có màu nâu, thân cứng dần và có màu nâu đỏ. Khi sắp vũ hoá, nhộng có màu nâu đen, các đốt cuối của nhộng có thể cử động được.
Nhìn chung, vòng đời của sâu ăn tạp tương đối ngẳn trung bình 30,2 ngày, trong đó giai đoạn ấu trùng chiếm trung bình 21,7 ngày, đây là giai đoạn gây hại quan trọng của sâu ăn tạp. Khả năng sinh sản mạnh cùng với thời gian phá hại kéo dài vì thế sâu ăn tạp là đối tượng gây hại quan trọng cho rau màu.
TẬP QUÁN SINH SỐNG VÀ CÁCH GÂY HẠI
Bướm thường vũ hoá vào buổi chiều và bay ra hoạt động vào lúc vừa tối, ban ngày bướm đậu ở mặt sau lá hoặc trong các bụi cỏ. Bướm hoạt động từ tối đến nửa đêm, có thể bay xa đến vài chục mét và cao đến 6-7 mét. Sau khi vũ hoá vài giờ, bướm có thể bắt cặp và một ngày sau đó có thể đẻ trứng.
Sâu ăn tạp ăn phá nhiều loại cây nên có mặt quanh năm trên đồng ruộng. Sâu cắn phá mạnh vào lúc sáng sớm nhưng khi có ánh nắng sâu chui xuống dưới tán lá để ẩn nắp. Chiều mát sâu bắt đầu hoạt động trở lại và phá hại suốt đêm.
Sâu vừa nở ăn gặm vỏ trứng và sống tập trung, nếu bị động sâu bò phân tán hoặc nhả tơ buông mình xuống đất. Sâu tuổi 1-2 chỉ ăn gặm phần diệp lục của lá và chừa lại lớp biểu bì trắng, từ tuổi 3 trở đi sâu ăn phá mạnh cắn thủng lá và gân lá. Ở tuổi lớn khi thiếu thức ăn, sâu còn tập quán ăn thịt lẫn nhau và không những ăn phá lá cây mà còn ăn trụi cả thân, cành, trái non. Khi làm nhộng, sâu chui xuống đất làm thành một khoang và nằm yên trong đó hoá nhộng.

Thiệt hại do sâu ăn tạp trên lá đậu nành, ớt, cải xà lách và dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
- Biện pháp canh tác: Đất trước khi trồng cần phải được cày, phơi và xử lý thuốc trừ sâu hoặc cho ruộng ngập nước 2-3 ngày để diệt nhộng, sâu non có trong đất. Phải thường xuyên đi thăm ruộng để kịp thời phát hiện sâu, ngắt bỏ ổ trứng hoặc tiêu diệt sâu non mới nở khi chưa phân tán đi xa.
Ngài sâu khoang có khuynh hướng thích mùi chua ngọt và ánh sáng đèn, do đó có thể dùng bả chua ngọt để thu hút bướm khi chúng phát triển rộ. Bả chua ngọt gồm 4 phần giấm + 1 phần mật + 1 phần rượu + 1 phần nước. Sau đó đem bả mồi vào chậu rồi đặt ở ngoài ruộng vào buổi tối nơi thoáng gió có độ cao 1m so với mặt đất.
- Biện pháp sinh học: Sâu ăn tạp thường bị 4 nhóm ký sinh sau: côn trùng ký sinh (Ong thuộc họ Braconidae và ruồi thuộc họ Tachinidae ), nấm ký sinh (Beauveria sp. và Nomurea sp. ), siêu vi khuẩn gây bệnh VPV, vi khuẩn và Microsporidia.
- Biện pháp hoá học: Atabron được dùng làm nền phối hợp với các loại thuốc còn lại hoặc với các loại thuốc Cúc tổng hợp sẽ cho hiệu quả phòng trị rất tốt. Sâu ăn tạp cũng rất dễ kháng thuốc, nên luân phiên nhiều loại thuốc để phun.
- Biện pháp Phòng Trừ Dịch Hại Tổng Hợp (IPM):
+ Vệ sinh đồng ruộng, tiêu diệt nhộng, phơi đất hay ngâm ruộng một thời gian.
+ Dùng hoa hướng dương hay các loài cây có thể dẫn dụ sâu ăn tạp trồng xung quanh ruộng canh tác để dễ dàng tiêu diệt.
+ Dùng bẫy pheromone để dự báo trước sự đẻ trứng của sâu ăn tạp.
+ Hàng ngày theo dõi dự báo sự phát triển của sâu qua bẫy pheromone, thường xuyên ngắt bỏ ổ trứng và diệt ấu trùng trên những ruộng dẫn dụ.
+ Dùng sản phẩm sinh học có nguồn gốc nấm, vi khuẩn khi có những dấu hiệu cắn phá lá đầu tiên. Thông thường 10 ngày sau phải phun thuốc lại.


Sâu tơ Plutella xylostella Linnaeus
Họ: Yponomeutidae; Bộ Lepidoptera. 


ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Bướm dài từ 6 - 10 mm, sải cánh rộng từ 10 - 15 mm. Cánh trước màu nâu, giữa lưng có một dãi gợn sóng, màu trắng trên bướm đực và màu vàng trên bướm cái, chạy dài đến cuối cánh. Hai cạnh của cánh sau có rìa lông rất dài. Khi đậu cánh xếp xuôi theo thân và dựng đứng phía trên thân mình, đuôi cánh hơi nhô lên cao. Râu đầu dài từ 3 - 3,5 mm và luôn đưa tới trước rất linh hoạt. Bướm có thể sống đến 2 tuần và đẻ độ 200 trứng.

Thành trùng, ấu trùng sâu tơ (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
Trứng hình bầu dục, dẹp, màu vàng nhạt, đường kính từ 0,3 - 0,5mm. Trứng đẻ rời rạc ở mặt dưới lá, gần gân chính và nở trong vòng 3 - 4 ngày.
Ấu trùng màu xanh lục, mình nở to chính giữa, 2 đầu nhọn, thân chia đốt rõ ràng và có 3 cặp chân giả từ đốt bụng thứ năm, lớn đủ sức mình sâu dài từ 8 đến 11mm. Sâu có 4 tuổi với thời gian phát triển lâu độ 7 - 10 ngày.
Thời gian làm nhộng lâu 4 - 7 ngày. Khi mới hình thành nhộng có màu xanh nhạt, khoảng 2 ngày sau thành màu vàng nhạt, chiều dài nhộng từ 5 - 7mm, chung quanh nhộng có kén bằng tơ bao phủ.
TẬP QUÁN SINH SỐNG VÀ CÁCH GÂY HẠI
Sâu non mới nở bò lên mặt lá gặm biểu bì tạo thành những đường rảnh nhỏ ngoằn ngoèo. Từ tuổi 2, sâu ăn thịt lá để lại lớp biểu bì tạo thành những vết trong mờ. Sâu lớn an toàn bộ biểu bì lá làm lá thủng lỗ chỗ, giảm năng suất và chất lượng rau. Khi mật độ sâu cao, ruộng rau bị hại xơ xác, chỉ còn trơ lại gân lá. Khi bị động đến sâu thường nhả tơ buông mình xuống đất nên còn được gọi là "sâu dù".

Thiệt hại do sâu tơ trên cải bẹ xanh (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, tỉa bỏ các lá già, làm cỏ.
Bố trí mùa vụ thích hợp, vụ đông xuân ít sâu hơn vụ xuân hè, mưa già sâu tơ sẽ giảm. Luân canh với cây không cùng ký chủ, dùng bẫy dính màu vàng theo dõi bướm sâu tơ, trồng xen với cây họ cà sẽ đuổi được bướm của sâu tơ.
Do bướm sâu tơ thường không bay cao, nên có thể dùng lưới cao 2 m bao xung quanh để hạn chế bướm sâu tơ từ bên ngoài bay vào ruộng cải đẻ trứng

Bao lưới xung quanh ruộng cải (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
Rất khó trị bằng thuốc hóa học vì sâu kháng thuốc rất mạnh. Nên áp dụng quy trình IPM bao gồm cả việc trồng cải trong nhà lưới, kết hợp thuốc BT với thuốc hóa học như MATCH 050EC, SUCCESS 25EC và tạo điều kiện cho thiên địch phát triển.


Bọ nhẩy Phyllotreta striolata Fabricius
Họ Ánh Kim (Chrysomelidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có chiều dài thân từ 1,8 - 2,4 mm, hình bầu dục, toàn thân màu đen bóng. Trên cánh trước có 8 hàng chấm đen lõm dọc cánh và hai vân sọc cong có hình dáng tương tự vỏ đậu phộng màu vàng nhạt. Đốt đùi chân sau nở to nên có thể nhảy được. Đời sống của thành trùng dài nhiều tháng, con cái đẻ trứng trong đất, có thể đến cả trăm trứng.

Sâu non, nhộng (Hồ Văn Tín, ĐHCT) và thành trùng bọ nhảy (Trần Văn Hai, ĐHCT)
Trứng màu trắng sữa, hình bầu dục, dài khoảng 3 mm. Ấu trùng có 3 tuổi và phát triển lâu độ 3-4 tuần. Ấu trùng lớn đủ sức dài khoảng 4 mm, hình ống tròn, mình màu vàng nhạt, 3 đôi chân ngực rất phát triển và mỗi đốt của cơ thể sâu đều có các u lồi. Nhộng hình bầu dục, màu vàng nhạt, dài khoảng 2 mm, mầm cánh và mầm chân sau rất dài; đốt cuối cùng có 2 gai lồi. Thời gian làm nhộng từ 7-10 ngày.
TẬP QUÁN SINH SỐNG VÀ CÁCH GÂY HẠI
Thành trùng thường ẩn vào nơi ẩm mát, mặt dưới các lá gần mặt đất khi trời nắng, có khả năng nhảy xa và bay rất nhanh, thường bò lên mặt lá ăn phá vào lúc sáng sớm và chiều tối, cắn lủng lá cải thành những lổ đều đặn trên khắp mặt lá rất dễ nhận diện, làm lá có thể bị vàng và rụng.
Ấu trùng ăn rễ cây làm cây bị còi cọc, đôi khi héo hoặc thối. Củ cải bị sâu non gặm vỏ hoặc đục vào trong thịt củ làm giảm giá trị thương phẩm.

Thiệt hại do bọ nhảy (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Vệ sinh ruộng trồng cải sau khi thu hoạch, thu gom các cây cải hoặc lá cải hư vào một nơi để tiêu diệt.
Luân canh với các loại cây trồng khác không phải là ký chủ của sâu cũng hạn chế phần nào thiệt hại ở vụ sau

Khi cần thiết có thể dùng thuốc nhóm gốc cúc thực vật kết hợp với gốc lân hữu cơ theo khuyến cáo.



Sâu ăn đọt cải
Họ Ngài Sáng (Pyralidae); Bộ Cáng Vảy (Lepidoptera)

 
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Có 2 loài đáng chú ý:
1. Hellula undalis Fabricius
Bướm nhỏ, màu nâu xám đậm, trên cánh có nhiều sọc ngang gãy khúc màu xám nhạt. Rải rác trên cánh có những đốm hình dạng không đồng nhất màu đậm, cuối bìa cánh có một hàng điểm đen. Đời sống của bướm ngắn, độ 1 tuần và đẻ 100-200 trứng rải rác trên các lá non của đọt cải. Trứng hình bầu dục, màu trắng ngà, nở trong vòng 4-5 ngày. Ấu trùng màu hồng, đầu đen và có những sọc đen chạy dọc thân mình, thời gian phát triển lâu độ 10 ngày. Nhộng màu đỏ nâu, phát triển 6-8 ngày.

Ấu trùng (Trần Văn Hai, ĐHCT)- thành trùng (NSW Agriculture)
Ấu trùng nở ra tìm ăn ở đọt non của cây cải. Chúng nhả tơ bao phủ đọt cải và ở ăn bên trong làm cho đọt non bị chết nên gây thiệt hại đáng kể cho cải bắp, cải ngọt, bẹ xanh và cải bông.
2. Crocidolomia binotalis Zeller
Bướm màu xám nâu, có đốm nhỏ màu nâu đậm trên cánh và dọc cạnh sau của cánh trước. Bướm có chiều dài thân từ 10 - 14 mm, sải cánh rộng từ 18 - 20 mm.
Trứng dẹp, hơi tròn và có đường kính từ 1 - 2 mm, được đẻ thành từng khối ở kẻ lá của đọt non. Khi mới đẻ khối trứng màu xanh, sau khoảng 2 ngày có màu xanh vàng và trước khi nở màu đen xám. Thời gian phát triển của trứng lâu độ 3-4 ngày.
Ấu trùng có 5 tuổi và phát triển trong vòng 12-15 ngày. Khi mới nở màu xanh vàng, đầu nâu, dần dần cơ thể chuyển thành màu đậm và đến tuổi cuối có màu nâu đậm với 3 sọc trắng trên lưng và mỗi bên hông có 3 đốm tròn nhỏ ở mỗi đốt. Toàn thân có nhiều lông dài trong suốt. Lớn đủ sức ấu trùng dài từ 14 - 17 mm. Sâu thường sống tập trung ăn đọt non. Nhộng màu nâu đỏ, dài từ 10 - 15 mm và làm nhộng trong đất, lâu 7-8 ngày.

Sâu non gây hại lá cải bẹ xanh (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thường xuyên thăm ruộng cải để phát hiện sớm khi sâu vừa xuất hiện, còn ở ngoài lá chưa chui vào trong đọt cải và phun thuốc như Success, Cyperan.


Sâu đo Chrysodeixis eriosoma (Doubleday) Walker
Họ Bướm Đêm (Noctuidae); Bộ Cáng Vảy (Lepidoptera) 


ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Bướm có chiều dài cơ thể từ 15 - 20 mm và sải cánh rộng từ 35 - 45 mm. Cánh màu nâu xám, không có cấu trúc rõ rệt nhưng đặc điểm dễ nhận diện là khoảng giữa cánh trước có hai đốm sáng óng ánh hình số 8. Bướm có thể sống đến 2 tuần và đẻ dến khỏang 200 trứng. Trứng hình bán cầu, đường kính khoảng 0,50 mm, đẻ rời rạc trên phiến lá non, nở trong vòng 2-3 ngày.
Ấu trùng màu xanh nhạt với 2 sọc trắng 2 bên hông và nhiều sọc trắng giữa lưng, lớn đủ sức dài từ 35 - 40 mm. Sâu chỉ có 2 đôi chân giả ở bụng (thay vì 4 đôi như các loại sâu của bướm khác) và một đôi ở cuối đuôi nên sâu di chuyển bằng cách uốn cong thân mình. Ấu trùng có 5 tuổi và thời gian phát triểu lâu độ 2 tuần lể.
Sâu đeo ở mặt dưới lá và ăn lá lủng thành những lổ lớn (dễ phân biệt với triệu chứng của sâu tơ).

Ấu trùng (Trần Thị Ba, ĐHCT)- thành trùng (NSW Agriculture)
Nhộng màu nâu nhạt, dài từ 14 - 17 mm, ở trong đất, lâu độ 5-7 ngày.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Sâu thường xuất hiện rải rác nên không gây hại tập trung, có nhiều thiên địch nên, nếu cần, kết hợp phòng trị chung với các lọai sâu khác như sâu tơ, sâu ăn tạp, sâu ăn đọt cải.
Khi cần thiết có thể dùng thuốc MATCH 050EC hoặc SUCCESS 25SC để phòng trị.


II. SÂU HẠI BẦU BÍ DƯA:


Bọ dưa Aulacophora similis (Oliver)

Họ Ánh Kim (Chrysomelidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)
KÝ CHỦ
Đây là loài côn trùng đa ký chủ, gây hại rất nhiều loại cây trồng nhưng chủ yếu trên các cây thuộc họ Cucurbitacea, như dưa hấu, dưa leo, bầu, bí đao, bí đỏ. Đôi khi Bọ Dưa cũng ăn trên bắp, lúa miến và cả bông phấn lúa.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có chiều dài thân từ 6 - 8 mm, cánh màu vàng nâu, mắt đen, râu dài rất linh động. Đời sống của thành trùng rất dài, khoảng 100 - 200 ngày. Một thành trùng cái đẻ khoảng 200 trứng.

Thành trùng (Nguồn: AVRDC), triệu chứng (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Trứng rất nhỏ, dài khoảng 0,8 mm và rộng 0,3 mm, màu vàng xanh khi mới đẻ và màu vàng nâu khi sắp nở. Thời gian ủ trứng từ 8 - 15 ngày.
Ấu trùng mới nở màu trắng sữa, sau thành màu vàng nâu, đầu màu nâu, điểm đặc biệt là có 1 đôi chân giả. Ấu trùng có 3 tuổi với thời gian phát triển từ 18 đến 35 ngày.
Nhộng màu nâu nhạt, thời gian nhộng từ 5 - 14 ngày. Nhộng được hình thành trong đất, bên ngoài bao phủ bằng một kén tơ rất dày. Nhộng phát triển trong thời gian từ 4 - 14 ngày.
Vòng đời bọ dưa từ 80 - 130 ngày.
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng hoạt động mạnh vào ban ngày, nhất là khi có nắng lên. Thành trùng cái đẻ trứng thành từng nhóm từ 2 - 5 cái lúc sáng sớm hay chiều tối và đẻ trong đất, gần gốc cây hay trong rơm rạ.
Thành trùng cạp lớp biểu bì và phần mô diệp lục mặt trên lá thành một đường vòng, sau đó, phần bị cạp ăn sẽ đứt lìa khỏi lá. Thành trùng thường tấn công cây con khi có hai lá đơn dầu tiên, nếu mật số cao có thể ăn rụi hết lá lẫn đọt non. Cây trồng trong mùa nắng bị thiệt hại nhiều hơn trong mùa mưa.
Ấu trùng sau khi nở ăn rễ cây và đục vào gốc làm cây bị vàng héo, chậm phát triển hoặc chết đột ngột. Các vết ăn phá của ấu trùng trên rễ, gốc cây còn là nơi xâm nhập của vi khuẩn hay nấm làm dây dưa bị chết.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Sau khi thu hoạch, gom dây dưa lại để thu hút thành trùng tới xong dùng thuốc trừ sâu để tiêu diệt.
Bảo vệ cây con tích cực lúc ban đầu.
Khi thấy có thành trùng bay trong ruộng dưa mà mật số còn ít, sáng sớm hay chiều tối nên soi đèn bắt.
Sử dụng thuốc hóa học để trừ thành trùng. Sau đó từ 5 - 7 ngày áp dụng lại nếu mật số còn cao, nhất là khi cây còn nhỏ. Áp dụng thuốc hạt để rãi đầu vụ, hoặc thuốc nhóm gốc lân hoặc cúc tổng hợp phun giai đoạn cây còn non theo khuyến cáo.


Sâu ăn lá Diaphania indica (Saunders)
Họ Ngài Sáng (Pyralidae); Bộ Cánh Vảy (Lepidoptera)
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Bướm có chiều dài thân từ 10 - 12 mm, sải cánh rộng từ 20 - 25 mm. Bướm có cánh trước màu trắng bạc với một đường viền màu nâu đậm dọc theo cạnh trước của cánh trước và cạnh ngoài của cánh trước và cánh sau. Thời gian sống của bướm từ 5 đến 7 ngày và một bướm cái đẻ từ 150 - 200 trứng.
Trứng màu trắng đục, trước khi nở chuyển thành màu trắng hơi ngả vàng, được đẻ riêng lẻ trên cả hai mặt lá, nhất là đọt và trái non. Thời gian ủ trứng từ 4 - 5 ngày.
Sâu màu xanh lá cây nhạt, có 2 sọc trắng chạy dọc cơ thể rất rõ. Đủ lớn ấu trùng dài từ 20 - 25 mm. Ấu trùng có 5 tuổi, phát triển từ 10 - 20 ngày.
Nhộng màu nâu nhạt khi mới hình thành, vài ngày sau chuyển thành màu nâu đen. Thời gian nhộng từ 6 - 7 ngày.

Ấu trùng (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT), thành trùng (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Sâu có tập quán là dùng tơ cuốn các đọt non lại và ở bên trong ăn phá. Khi sâu lớn có thể cắn trụi cả lá và chồi ngọn của đọt non. Sâu còn ăn trái non làm cho trái bị thối và rụng. Khi trái lớn sâu thường ẩn ở mặt dưới, nơi phần trái chạm mặt đất và cạp lớp da bên ngoài làm trái bị lép nơi đó và da trái bị loang lổ. Sâu làm nhộng trong các lá non cuốn lại.

Ấu trùng gây hại vỏ trái dưa hấu, đục trái khổ qua (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Có thể dùng tay bắt sâu khi mật số còn ít hoặc áp dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng trước khi sâu cuốn lá lại.
Khi cần thiết có thể dùng các loại thuốc như PERAN 50EC, CYPERAN để phòng trị.


Bọ rùa Epilachna vigintioctopunctata (Fabricius)

Họ Bọ Rùa (Coccinellidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)
 
KÝ CHỦ
Ngoài bầu, bí, dưa, loài bọ rùa này còn tấn công cả cà chua, đậu bắp, ớt, các loại đậu.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có cánh màu đỏ cam, có 28 chấm đen trên cánh. Cơ thể có chiều dài từ 5 - 7 mm và rộng từ 4 - 6 mm. Thành trùng cái sống khoảng 51 ngày và thành trùng đực sống từ 40 - 45 ngày.
Trứng hình thoi, màu vàng, thường được đẻ thành từng khóm từ 9 - 55 cái ở mặt dưới lá và được xếp thẳng đứng với mặt lá. Trứng dài từ 1,2 - 1,5 mm. Một thành trùng cái có thể đẻ từ 250 - 1000 trứng trong thời gian từ 3 - 5 ngày. Thời gian một thành trùng cái đẻ 1 ổ trứng kéo dài 20 - 30 phút. Khi sắp nở trứng có màu vàng sậm. Trứng của loài này nở rất đồng loạt và có tỉ lệ nở từ 95 - 100%.
Ấu trùng có 4 tuổi, phát triển trong thời gian từ 16 - 23 ngày. Khi sắp nở, ấu trùng cắn đỉnh vỏ trứng rồi dùng cử động của chân để chui ra ngoài. Thời gian chui ra của một ấu trùng mất trung bình 30 phút. Sau khi nở, ấu trùng tập trung tại vỏ trứng từ 12 - 15 giờ và ăn hết vỏ trứng hay ăn các trứng chưa nở kịp hoặc không nở đến khi không còn trứng nào chúng mới phân tán tìm thức ăn. Ấu trùng màu vàng khi mới nở, lớn đủ sức màu đậm. Trên khắp mình có gai nhỏ màu nâu đậm mọc thẳng góc với da. Chi tiết trong từng tuổi của ấu trùng như sau:
Tuổi 1: cơ thể có chiều dài từ 1 - 1,2 mm và chiều rộng từ 0,5 - 0,6 mm; toàn thân màu vàng, trên thân có 6 hàng gai, phát triển từ 2 - 3 ngày, trung bình 2,9 ngày.
Tuổi 2: cơ thể có kích thước 2,1 x 0,9 mm; màu vàng, 6 hàng gai trên thân đã hiện rõ, phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,3 ngày.
Tuổi 3: cơ thể có kích thước 3,5 x 1,2 mm; màu vàng, các chi tiết khác giống như tuổi 2 và phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,7 ngày.
Tuổi 4 kéo dài từ 4 - 5 ngày, trung bình 4,6 ngày. Cơ thể có kích thước khoảng 5 x 2 mm.
Nhộng màu vàng nhạt gần như trắng với nhiều đốm màu nâu đậm trên thân và chuyển sang vàng khi sắp vũ hóa. Nhộng có chiều dài từ 5 - 6 mm, rộng từ 3 đến 4 mm. Nhộng phát triển trong thời gian từ 2 - 7 ngày và thường được hình thành ở mặt dưới lá. Trước khi làm nhộng 1 ngày, ấu trùng nằm bất động, không ăn phá và màu sắc có thay đổi chút ít, từ vàng chuyển sang vàng nhạt. Ấu trùng gắn phần cuối bụng vào lá cây xong lột xác lần cuối để thành nhộng. Trên mình nhộng có vài điểm đen, trong đó hai đốm đen ở đầu nhộng rất rõ, phần cuối nhộng có phủ một lớp gai.
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI

Triệu chứng và thành trùng bọ rùa (Nguồn: NSW Agriculture)
Cả ấu trùng và thành trùng đều sống ở mặt dưới lá, cạp biểu bì và nhu mô diệp lục của lá, chỉ còn lại biểu bì trên và gân. Mật số cao bọ rùa có thể cạp ăn trụi lá trên cây và sau đó có thể tấn công tiếp phần ngọn, trái non và cuống trái. Ấu trùng có khả năng ăn mạnh hơn thành trùng, nhất là ấu trùng tuổi 4, ăn mạnh gấp 2 - 3 lần thành trùng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thăm ruộng thường xuyên và có thể bắt ấu trùng, thành trùng và ổ trứng bằng tay hoặc phun các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.



Ruồi đục lá Liriomyza trifolii (Burgess)
Họ: Agromyzyiidae; Bộ Hai Cánh (Diptera)

KÝ CHỦ
Đây là loài côn trùng phá hại trên nhiều loại cây như bầu bí dưa leo dưa gan, cà chua, ớt, đậu nành, đậu trắng…
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng rất nhỏ, dài từ từ 1,3 - 1,5 mm, màu đen bóng, nhưng một phần cơ thể, gồm cả phiến mai trên ngực có màu vàng. Mắt kép màu đen bóng. Cánh trước có chiều dài khoảng 1,4 mm, rộng 0,60 mm. Cánh sau thoái hóa còn rất nhỏ, màu vàng nhạt. Bụng và chân có nhiều lông, chân màu vàng, đốt chày và đốt bàn màu đen, bàn chân 5 đốt, đốt cuối có 2 móng cong màu đen.
Trứng rất nhỏ, màu trắng hồng, tròn, đường kính khoảng 0,2 mm.
Ấu trùng có chiều dài khoảng 2 mm, màu vàng nhạt khi mới nở, sau chuyển thành màu vàng đậm. Cơ thể có 10 đốt, miệng dạng móc câu màu đen. Thời gian phát triển của ấu trùng từ 3 - 4 ngày.
Nhộng có chiều dài khoảng 1,5 mm, rộng 0,7 mm. Thời gian phát triển của nhộng từ 6 - 8 ngày.

Thành trùng ruồi đục lá (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng hoạt động mạnh từ 7 - 9 giờ sáng và từ 4 - 5 giờ chiều. Thành trùng cái dùng bộ phận đẻ trứng rạch mặt lá tạo nhiều lỗ. Trong số đó có một số lổ chứa trứng, chỉ khoảng 1%, phần lớn các lỗ còn lại dùng làm thức ăn cho thành trùng cái và đực do chất lỏng tiết ra từ vết chích. Các lỗ đục thường xuất hiện ở chóp lá hay dọc theo 2 bìa lá.

Triệu chứng ruồi đục lá trên lá cải bẹ xanh và dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Ruồi gây hại cho cây bằng cách đục thành những đường ngoằn ngoèo ở mặt trên lá, lúc đầu đường đục nhỏ, càng lúc càng to dần cùng với sự phát triển của cơ thể ấu trùng. Đường đục xuất hiện ở cả hai mặt lá nhưng thấy rõ nhất là ở mặt trên lá. Khi trưởng thành, dòi đục thủng biểu bì chui ra ngoài và làm nhộng trên mặt lá hay trên các bộ phận khác của cây hoặc buông mình xuống đất làm nhộng.
Các vết đục khắp mặt lá làm cho lá bị khô, trái nhỏ, giảm phẩm chất của trái, nếu trầm trọng làm năng suất giảm.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
* Biện pháp canh tác:
+ Làm sạch cỏ chung quanh ruộng dưa trước khi xuống giống.
+ Cày sâu sau khi thu hoạch.
+ Áp dụng màn phủ nông nghiệp.
+ Xuống giống đồng loạt.
* Biện pháp sinh học:
Ngoài thiên nhiên ruồi có rất nhiều thiên địch. Nếu áp dụng thuốc trừ sâu nhiều sẽ làm cho mật số ruồi tăng cao và tạo thành dịch dễ dàng.
* Biện pháp hóa học:
Nếu mật số thiên địch trên 50% không cần áp dụng thuốc để trừ ruồi, nhưng nếu mật số thiên địch thấp, không thể khống chế mật số ruồi thì nên áp dụng thuốc khi cây con bắt đầu có lá mầm và lá thật đầu tiên. Ở những vùng ruồi có điều kiện nhân mật số nhanh thì cần áp dụng thuốc lại khi cần. Áp dụng thuốc nhóm gốc lân hoặc gốc cúc, kết hợp với sử dụng dầu khoáng.



Bọ xít nâu Cyclopelta obscura Le Peletier et Serville

Họ Bọ Xít Năm Cạnh (Pentatomidae); Bộ Cánh Nửa Cứng (Hemiptera)

KÝ CHỦ
Loài này được tìm thấy trên hầu hết các loại đậu, bầu bí, dưa, mướp, cây ăn trái và một số loại cỏ.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Loài này được tìm thấy trên hầu hết các loại đậu, bầu bí, dưa, mướp, cây ăn trái và một số loại cỏ.
Thành trùng màu nâu đậm, giữa ngực trước có một điểm vàng nhỏ. Bụng có chiều ngang rộng hơn 2 cánh xếp lại, phần dư ra của bụng có những đốm nhỏ màu vàng cam. Cánh sau là cánh màng mỏng màu nâu. Râu đầu 5 đốt, luôn hướng về phía trước. Thời gian sống của thành trùng từ 2 - 4 tháng. Thành trùng đực và cái được phân biệt như sau:
Thành trùng đực có chiều dài cơ thể từ 13 - 14 mm, cuối bụng hơi nhọn, mặt dưới của bụng không có những đường gạch ngang rõ rệt; phần bụng đưa ra khỏi cánh màu vàng cam không nổi rõ.
Thành trùng cái cơ thể to hơn, dài từ 14 - 18 mm, cuối bụng tròn, màu sắc mặt dưới bụng và phần nhô ra khỏi cánh có màu sắc rõ ràng. Một thành trùng cái đẻ từ 100 - 200 trứng.
Trứng màu nâu, dài từ 35 - 40 mm. Trứng được đẻ thành hàng một trên thân, đôi khi cả trên lá và trái. Số trứng trên mỗi ổ rất thay đổi, từ 7 - 100 cái. Đôi khi trứng được đẻ rải rác từ 3 - 5 cái. Thời gian ủ trứng từ 12 - 15 ngày. Trứng bọ xít nở rất đồng loạt, từ 1 - 2 ngày, với tỷ lệ khoảng 80-100%; khi sắp nở trứng chuyển sang màu nâu đậm.
Lúc nở ấu trùng đội nấp vỏ trứng và dùng cử động của thân mình trồi ra ngoài, khoảng 40 phút sau ấu trùng khô lại và cử động bình thường. Sau khi nở ấu trùng tập trung quanh ổ trứng 3 - 4 ngày sau mới phân tán đi nơi khác.
Ấu trùng có 5 tuổi, phát triển từ 60 - 80 ngày. Chi tiết trong từng tuổi của ấu trùng như sau:
- Tuổi 1: khi mới nở dài khoảng 1,2 mm, màu đen, mình tròn, trên mình có những vân màu vàng nhạt nổi lên, râu đầu 4 đốt. Mắt kép màu đỏ. Khoảng ngày thứ hai sau khi nở ấu trùng bắt đầu hoạt động rất nhanh nhẹn và 3 ngày sau phần bụng của ấu trùng tròn lên và có màu đỏ tươi, từ 1 - 2 ngày sau thì thay da, ấu trùng tuổi này thay da rất đồng loạt.
- Tuổi 2: kích thước cơ thể dài từ 2 - 3 mm, chung quanh bụng có rìa vàng. Ở tuổi này bọ xít bắt đầu chích hút lá cây. Ở ngoài đồng, ban ngày bọ xít thường trốn dưới nách lá hoặc những kẻ hở của cành và thân chính của cây. Tuổi 2 phát triển từ 5 đến 7 ngày, trung bình 6 ngày.
- Tuổi 3: cơ thể dài từ 3 - 5 mm. Những đường vân trên bụng đã nổi rõ. Bọ xít bắt đầu tấn công được trái. Giai đoạn này kéo dài từ 8 - 10 ngày, trung bình 7,5 ngày.
- Tuổi 4: cơ thể dài từ 5 - 7 mm, phát triển từ 9 - 23 ngày, trung bình 21,8 ngày.
Mầm cánh đã bắt đầu xuất hiện.
- Tuổi 5: cơ thể dài từ 7 - 9 mm, những đường vân trên bụng rất rõ và phát triển từ 27 - 31 ngày, trung bình 29 ngày.

Thành trùng và ấu trùng (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng sau khi bắt cặp từ 1 - 3 ngày thì bắt đầu đẻ trứng. Số lượng trứng đẻ cao nhất ở ngày đầu và giảm khá nhiều ở ngày thứ ba.
Sau khi nở ấu trùng không ăn mà chỉ cần đủ ẩm độ để sống. Từ tuổi 2 trở đi, ấu trùng bắt đầu phân tán đi chích hút các bộ phận của cây. Phần thịt chung quanh vết chích bị sượng và cứng. Đối với cây đậu nành, bọ xít chích hút làm cho cây đậu bị khô khi cây chưa tới giai đoạn chín hẳn; trái bị chích có quầng đen ngoài vỏ, nếu trái còn non thì hạt bị lép hoặc nếu phát triển được thì trái rất nhỏ, trái vẫn tươi xanh mà không vàng khô như bình thường, lông tơ trên vỏ trái bị khô.
Loài này có tập quán sống tập trung, ở 1 cây sẽ thấy cả ấu trùng và thành trùng cùng tập trung dọc theo thân và trên những trái có lá đậu che mát. Lúc trời nắng gắt bọ xít thường ẩn dưới lá hoặc dọc thân cây, phần có lá che mát.
Thành trùng và ấu trùng tuổi 4 - 5 ăn phá rất mạnh. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy với mật số 10 con trên một cây đậu bọ xít có thể làm thiệt hại năng suất từ 50 - 60% và với mật số khoảng 20 con/cây hầu như không thu hoạch được gì.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Diệt cỏ quanh nơi trồng, tránh trồng những cây có cùng ký chủ. Có thể bắt ấu trùng và thành trùng bằng tay hoặc áp dụng thuốc hóa học để trị nếu mật số bọ xít đạt khoảng 10 con/cây.



Nhện đỏ Tetranychus sp.
Họ: Tetranychidae; Bộ Acarina.

KÝ CHỦ
Nhện đỏ có diện phân bố rất rộng và gây hại trên nhiều loại cây khác nhau như bầu bí dưa, chủ yếu là dưa hấu, cà chua, cà tím, các loại đậu, đu đủ...
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng hình bầu dục, thân rất nhỏ khoảng 0,4 mm, thành trùng đực có kích thước nhỏ, khoảng 0,3 mm. Toàn thân phủ lông lưa thưa và thường có màu xanh, trắng hay đỏ với đốm đen ở 2 bên thân mình. Nhện có 8 chân, thành trùng cái màu vàng nhạt hay hơi ngả sang màu xanh lá cây. Nhìn xuyên qua cơ thể có thể thấy được hai đốm màu đậm bên trong, đó là nơi chứa thức ăn. Sau khi bắt cặp, thành trùng cái bắt đầu đẻ trứng từ 2 - 6 ngày, mỗi nhện cái đẻ khoảng 70 trứng.

Nhện đỏ đang đẻ trứng
Trứng rất nhỏ, hình cầu, bóng láng và được gắn chặt vào mặt dưới của lá, thường là ở những nơi có tơ do nhện tạo ra trong khi di chuyển. Khoảng 4 - 5 ngày sau trứng nở.
Ấu trùng nhện đỏ rất giống thành trùng nhưng chỉ có 3 đôi chân. Những ấu trùng sẽ nở ra thành trùng cái thay da 3 lần trong khi những ấu trùng sẽ nở ra thành trùng đực thay da chỉ có 2 lần. Giai đoạn ấu trùng phát triển từ 5 - 10 ngày.
Nhện đỏ hoàn tất một thế hệ từ 20 - 40 ngày.

Thiệt hại do nhện đỏ ở mặt dưới lá dưa hấu (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Nhện di chuyển rất nhanh và nhả tơ mỏng bao thành một lớp ở mặt dưới lá nên trông lá có màu trắng dơ do lớp da để lại sau khi lột cùng với bụi và những tạp chất khác. Cả ấu trùng và thành trùng nhện đỏ đều chích hút mô của lá cây làm cây bị mất màu xanh và có màu vàng và sau cùng lá sẽ bị khô đi. Màu vàng của lá dễ nhìn thấy nhất là ở mặt dưới lá, làm giảm phẩm chất và năng suất trái.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thiên địch có vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế mật số nhện đỏ như:
- Nhện đỏ Galandromus (Metaseiulus) occidentalis, loài này có cùng kích thước với nhện gây hại nhưng thiếu các chấm và có màu vàng nhạt đến màu đỏ nâu, khả năng diệt nhện của loài này không cao lắm.
- Bù lạch 6 chấm Scolothrips sexmaculatus có 3 chấm màu sậm trên mỗi cánh trước, bù lạch bông Frankliniella occidentalis có màu từ vàng chanh sáng đến nâu sậm.
- Bọ rùa Stethorus sp.
- Bọ xít nhỏ Orius tristicolorChysoperla carnea cũng là thiên địch của nhện đỏ.
Nhện đỏ rất khó trị vì rất nhỏ và thường sống ở gần gân lá, nơi thuốc trừ sâu rất khó tiếp xúc, hơn nữa, nhện tạo lập quần thể rất nhanh nên mật số tăng nhanh và nhiều. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ nhện nhưng phải để ý đến quần thể thiên địch.



Bù lạch Thrips palmi Karny
Họ: Thripidae; Bộ: Thysanoptera 

PHÂN BỐ KÝ CHỦ
Loài bù lạch này có diện phân bố rất rộng và có thể tấn công trên nhiều loại cây trồng.
ÐẶC ÐIỂM HÌNH THÁI VÀ SINH HỌC
Bù lạch có cơ thể rất nhỏ, khoảng 1 mm, màu nâu nhạt. Miệng phát triển cho việc chích hút. Chân của bù lạch rất đặc biệt là đốt bàn không có móng mà tận cùng bằng một mảnh nhỏ.
Trứng bù lạch hình trái thận, nở trong thời gian từ 3 - 10 ngày.
Ấu trùng rất giống thành trùng nhưng màu nhạt hơn, phát triển trong từ 4 - 7 ngày.
Thành trùng từ 8 - 18 ngày, vòng đời khoảng 25 ngày.
TẬP QUÁN SINH SỐNG VÀ GÂY HẠI

Triệu chứng chùn đọt trên dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Thành trùng và vòng đời bù lạch (Nguồn: NSW Agriculture)
Bù lạch thường đẻ trứng trong mô lá. Cả ấu trùng và thành trùng bù lạch thường sống ở mặt dưới lá và hay chui vào gần gân để trốn, do đó rất khó nhìn thấy, và thuốc trừ sâu cũng rất khó tiếp xúc được với chúng. Bù lạch thường chích cho nhựa cây chảy ra để hút ăn, đôi khi còn cạp cả mô lá hoặc cây. Lá cây bị bù lạch gây hại sẽ có dạng quăn queo, lá non biến dạng và bị cong xuống phía dưới.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
- Đốt các tàn dư thực vật.
- Áp dụng màn phủ nông nghiệp.
- Dùng bẩy màu vàng đặt vào rẫy từ khi cây con đến lúc trổ hoa để xác định mật số và quyết định khi nào áp dụng thuốc.
- Bù lạch rất khó trị vì nơi ẩn náu cũng như khả năng quen thuốc rất nhanh. Có thể lợi dụng thiên địch để khống chế mật số bù lạch. Nếu sử dụng thuốc hoá học để trị và nên thay đổi thuốc thường xuyên để tránh bù lạch quen thuốc. Dùng thuốc Actara hoặc Vertimec kết hợp với dầu khoáng.



Rầy mềm Aphis gossypii Glover
Họ: Aphididae; Bộ Homoptera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có hai dạng:
Dạng không cánh: cơ thể dài từ 1,5 - 1,9 mm và rộng từ 0,6 - 0,8 mm. Toàn thân màu xanh đen, xanh thẩm và có phủ sáp; một ít cá thể có dạng màu vàng xanh.
Dạng có cánh: cơ thể dài từ 1,2 - 1,8 mm, rộng từ 0,4 - 0,7 mm. Đầu và ngực màu nâu đen, bụng màu vàng nhạt, xanh nhạt, có khi xanh đậm, phiến lưng ngực trước màu đen. Mắt kép to. Ống bụng đen.

Ấu trùng, thành trùng không cánh và có cánh (Nguồn: NSW Agriculture)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Ấu trùng và thành trùng tập trung mặt dưới lá, nhất là đọt non, bông, chồi hút nhựa làm cho các phần ấy bị khô héo hoặc để lại những vết thâm đen trên lá.
Trên cây dưa , rầy gây hại trầm trọng nếu tấn công các dây chèo hay đỉnh sinh trưởng. Rầy mềm thường tập trung với số lượng lớn ở đọt non làm lá bị quăn queo và phân tiết ra thu hút nhiều nấm đen bao quanh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trái.
Đối với bầu bí trong giai đoạn có hoa nếu bị loài này tấn công với mật số cao thì hoa dễ bị rụng, nhất là vào thời kỳ cho trái non, gây hiện tượng rụng trái hay trái bị méo mó.
Trên cây bông vải, những dịch mật do rầy tiết ra rơi vào quả nang và lá đang mở ra sẽ là môi trường cho nấm mốc phát triển và gây khó khăn cho việc thu hoạch bông vải.
Ngoài ra, rầy còn là tác nhân truyền bệnh virus cho cây. Sau cùng làm cây bị mất sức, lùn và chết.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Nhặt và chôn vùi các phần có rầy gây hại.
Không nên bón nhiều phân đạm.
Rầy mềm nhân mật số rất nhanh nên thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện kịp thời và phòng trị đúng lúc thì cũng tương đối dễ diệt. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.
Vì rầy mềm truyền bệnh virus nên thuốc trừ sâu chỉ có thể diệt được rầy mà không hạn chế được bệnh, nhưng nếu áp dụng thuốc sớm, diệt được số lớn rầy ở giai đoạn đầu thì khả năng truyền virus của rầy không nhiều.
Sử dụng thuốc trừ sâu nên để ý đến quần thể thiên địch của rầy mềm.


Ruồi đục trái Dacus cucurbitae Coquillet
(Bactrocera cucurbitae

Họ: Trypetidae; Bộ Diptera

KÝ CHỦ
Ruồi gây hại trên các loại cây như dưa, bầu bí, mướp, ớt...
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Ruồi có hình dáng tương tự ruồi đục trái cây nhưng khác nhau là ở phần ngực có một vạch màu vàng ngay giữa ngực và cánh có màu đục hơn và cánh trước có một vệt màu đậm nằm ngang đầu cánh.
Trứng hình bầu dục màu trắng bóng. Thời gian ủ trứng từ 2 - 4 ngày
Dòi màu trắng ngà, đầu nhọn. Thời gian phát triển của dòi từ 7 - 11 ngày.
Nhộng hình trụ, màu vàng khi mới hình thành, nhưng khi sắp vũ hoá có màu nâu, nằm trong đất. Thời gian nhộng từ 8 - 10 ngày.
Chu kỳ sinh trưởng của ruồi từ 16 - 23 ngày.

Thành trùng ruồi đục trái (Nguồn: Hiroyuki Kuba & Masaaki Yamagishi)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI

Thiệt hại trên trái khổ qua và ớt (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Ruồi cái đẻ trứng vào bên trong trái thành từng chùm. Dòi nở ra đục lòn thành đường hầm bên trong trái làm cho trái bị hư thối. Khi sắp làm nhộng dòi buông mình xuống đất làm nhộng dưới mặt đất một lớp không sâu lắm, nhưng trong mùa mưa dòi làm nhộng ngay bên trong trái.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Luân canh các loại cây trồng không phải là ký chủ của ruồi như lúa, nhất là việc cho ruộng ngập nước sẽ làm chết nhộng rất nhiều
Bao trái lại để tránh ruồi đẻ trứng vào.
Thu gom các trái hư để thu hút thành trùng tới xong diệt bằng thuốc trừ sâu hay đốt.

 III.SÂU HẠI CÁC LOÀI ĐẬU:


Dòi đục thân đậu
Họ: Agromyziidae; Bộ Diptera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
1. Loài Ophiomyia phaseoli Tryon
Có ký chủ gồm nhiều lọai đậu như đậu xanh, đủa, cô-ve, trắng, đen... Loài nầy tấn công khi cây còn rất non, vừa có 2 lá tử diệp đầu tiên, nên dễ làm chết cây con khi có từ 2 con dòi trở lên trong một cây.
Thành trùng là loại ruồi rất nhỏ, màu đen, thường thấy đậu trên lá non vào buổi sáng. Con cái dùng ống nhọn ở cuối bụng để đẻ từng trứng vào trong mỗi lỗ đục trên mặt lá. Trứng nở sau độ 2 ngày. Ấu trùng đục thành đường hầm ngoằn ngoèo trên mặt lá rồi đục qua cuống để vào thân và đục xuống gốc để làm nhộng trong phần vỏ của gốc cây con. Ấu trùng có 3 tuổi và thời gian phát triển làm hại cây đậu lâu độ 7-10 ngày. Nhộng có hình trụ, màu nâu bóng và kéo dài độ 7 ngày.

Thành trùng, nhộng và ấu trùng (Nguồn: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_2936.htm)
2. Melanagromyza sojae Zehntner
Chỉ tấn công cây đậu nành mà thôi. Loài này cũng đẻ trứng trên lá non và ấu trùng nở ra cũng đục ngoằn ngoèo trên phiến lá rồi mới qua cuống để đục vào thân cây. Tuy nhiên, ở trong thân chúng đục ở phần rổng của trụ trung tâm nên không làm chết cây con mà thường chỉ gây chết nhánh non và cây đậu bị chậm phát triển. Nhộng nằm trong phần lõi thân cây đậu nành.
Chu kỳ sinh trưởng cùng tương tự như trên.

Thành trùng, nhộng, triệu chứng thiệt hại (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Cách phòng trị thông thường là rải thuốc trừ sâu dạng hạt như BASUDIN 10H vào lúc tỉa đậu, chung với phân bón và tro trấu để bảo vệ cây con trong vòng 2 tuần đầu là đủ. Khi cần thiết, có thể phun BASUDIN 50EC để tiêu diệt.


Sâu xanh Heliothis armigera Hübner
Họ Ngài Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vải Lepidopera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Đây cũng là loài sâu đục trái bắp và trái cà chua. Sâu có kích thước khá lớn, màu xanh lục với 2 sọc nâu mờ giữa lưng và 2 sọc trắng lớn chạy dọc 2 bên hông. Sâu thường thấy có chiều dài độ 20-30 mm, ẩn ở mặt dưới lá và ăn lủng lá thành nhiều lổ lớn. Sâu phát triển qua 5 tuổi, lâu 15-20 ngày rồi chui xuống đất để làm nhộng, hoặc trong trái hay lá khô. Bướm hoạt động ban đêm, đeo trứng rời rạc trên lá hoặc trái non và trứng nở sau 3-4 ngày. Bướm dài độ 20 mm, sải cánh rộng 35-40 mm, cánh trước màu vàng nâu với bìa cánh có vệt nâu đậm và 1 đốm đen ở giữa cánh, cánh sau màu trắng nhưng lại có 1 vệt đen lớn ở bìa cánh. Bướm sống lâu và đẻ 300-500 trứng, rải rác trên lá non hoặc bông, trái non.

Ấu trùng gây hại bắp, lá đậu, trái cà chua

Thành trùng, trứng sâu xanh (Nguồn: NSW Agriculture)
Thời gian phát triển và ăn phá của sâu lâu độ 2-3 tuần lể, và chu kỳ sinh trưởng độ 1,5-2 tháng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thường xuyên quan sát ruộng đậu, nhất là từ sau khi trồng đến 1 tháng tuổi lá chưa giao nhau, để phát hiện ổ trứng và kịp thời ngắt bỏ.
Sâu có khả năng kháng thuốc cao nên rất khó trị bằng các lọai thuốc sâu thông thường. Nên bắt sâu bằng tay kết hợp với việc phun thuốc, đặc biệt là lọai gốc cúc tổng hợp (Pyrethroids) vì có biệt tính cao lại mau phân hủy trong đất. Loài sâu này thường hay bị một loại siêu vi khuẩn (vi rút) thuộc nhóm NPV tấn công ở ngoài đồng.
Tránh trồng xen canh với bắp, cà chua, thuốc lá vì đều là cây ký chủ của chúng. Sau mỗi vụ nên xới đất rồi phơi ải một thời gian để diệt nhộng của sâu còn ẩn lại trong đất.
Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH, CYPERAN để phòng trị.


Sâu xanh da láng Spodoptera exigua Hübner
Họ Ngài Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vảy (Lepidopera) 
 
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Hình dạng rất giống sâu xanh nhưng nhỏ con hơn (dài 10-15 mm), da xanh lục với 2 sọc vàng nâu chạy dọc 2 bên thân mình, không có u gai trên lưng như sâu xanh. Bướm nhỏ hơn, màu nâu và có 1 đốm vàng ờ giữa cánh rất đặc sắc. Bướm cũng đẻ trứng ban đêm trên lá nhưng thành từng ổ từ 20-30 trứng có phủ lông trắng do chùm lông ở cuối bụng của con cái. Chu kỳ sinh trưởng của sâu khoảng 1 tháng, ngắn hơn nhiều so với sâu xanh hay các loài sâu khác cùng họ Noctuidae. Có lẻ vì vậy mà sâu phát triển và gia tăng mật số rất nhanh, lây lan rất dễ vì chúng cũng ăn cả ớt, hành, cà chua, bắp... và kháng thuốc rất mạnh.

Thành trùng (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang), ấu trùng gây hại lá hành (Nguồn: Trần Thanh Hải, ĐHCT)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Cũng áp dụng chiến lược tương tự như đối với sâu xanh nhưng cần chú thêm các điểm sau đây:
Sâu gia tăng mật số nhanh hơn và kháng thuốc cũng mạnh hơn; nên chú ý kiểm tra kỹ khi cây đậu còn non để có thể bắt sâu hoặc ổ trứng, hay cần lắm thì phun thuốc ngăn chặn kịp thời không cho bộc phát mật số, nhất là trong vụ Xuân - Hè là mùa có mật số sâu cao nhất.
Vào cuối vụ Xuân - Hè thì mật số của các lòai thiên địch thường tăng cao như nấm ký sinh, vi rút NPV, ong kén trắng... Do đó nên hạn chế sử dụng thuốc sâu vào lúc này để bảo vệ chúng.
Khi cần thiết, có thể phun các loại thuốc như SUCCESS hoặc MATCH để phòng trị.


Sâu đục trái đậu xanh Maruca testulalis Geyer
Họ: Pyralidae; Bộ Lepidopera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Con trưởng thành là loại bướm nhỏ, sải cánh độ 20 mm, có màu trắng với nhiều đốm và vằn nâu rất đặc sắc trên cả 2 cánh, họat động vào ban đêm, ban ngày đậu trốn ở trong lá. Bướm đẻ trứng từng cái trên hoa hoặc trái non. Ấu trùng có màu trắng hoặc nâu lợt với nhiều đốm đen trên khắp thân mình, ăn bông hoặc đục trái non, có thời gian phát triển khoảng 10 ngày. Chu kỳ sinh trưởng lâu độ 3 tuần đến 1 tháng.
Đây là loài sâu có phổ ký chủ rất rộng gồm đậu xanh, trắng, đen, đũa, cô-ve, bông so đũa... Trên đậu xanh, nông dân thường gọi là “sâu nhíu” vì chúng thường đẻ trứng trên chùm bông non và sâu nở ra nhả tơ nhíu chùm bông lại để ở ăn bên trong. Khi đậu có trái thì sâu đục vào và ăn luồn bên trong trái non, thải phân ra ngoài. Giai đọan này chúng thường gây hại nặng nhất là cho đậu cô-ve và đậu đũa vì làm mất giá trị trái tươi, nên người trồng mới phun thuốc rất nhiều lần đến cận ngày thu họach.

Ấu trùng, triệu chứng (Trần Thị Ba, ĐHCT)- thành trùng (NSW Agriculture)

BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
1. Nên trồng đồng lọat để dễ theo dõi và phòng trị kịp thời.
2. Đối với đậu rau ăn trái tươi như đậu đũa và cô-ve, không nên rải thuốc hột hoặc phun thuốc có gốc Lân hữu cơ cận ngày thu họach vì thuốc sẽ lưu bả độc nguy hiểm cho người tiêu dùng. Thuốc vi sinh BT có chứa độc tố và bào tử vi khuẩn Bacillus thuringiensis, thường rất có hiệu quả đối với sâu thuộc họ Pyralidae này. Nên trộn thuốc hóa học với thuốc BT để vừa tăng hiệu lực vừa ít bị sâu kháng thuốc.
3. Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH 050EC hoặc PERAN 50EC để phòng trị.


Sâu đục trái đậu nành Etiella zinkenella Treitschke
Họ: Phycitidae; Bộ Lepidopera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Loài này chỉ thấy tấn công đậu nành mà không thấy trên các lọai đậu khác. Bướm nhỏ, sải cánh độ 15 mm, màu vàng nâu nên rất tiệp với màu lá đậu khô, hoặc thân và trái đậu sắp chín. Bướm đẻ trứng vào ban đêm, rải rác trên vỏ trái đậu non vừa có hạt phát triển.
Sâu nở ra đục ngay vào trong trái và ở luôn bên trong ăn dần từ hạt này đến hạt khác. Do đó, thường ít thấy trái có lổ đục nhưng khi tách trái ra thì lại thấy có sâu lớn ở bên trong. Sâu có thể ăn cả trái hay chỉ làm mẻ hạt, giảm phẩm chất hạt đậu. Vòng đời lâu độ 1 tháng và giai đọan sâu ăn hạt kéo dài độ 2 tuần. Khi ăn hết trái này sâu thường chui ra ngoài để đục sang trái khác nên loại đậu có trái chùm đóng khít dễ bị thiệt hại nhiều hơn.

Thành trùng, trứng, ấu trùng trong trái đậu nành (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
1. Nên xuống giống đồng lọat hoặc trồng các giống sớm có chu ky sinh trưởng ngắn để thu hoạch trước cao điểm phát triển của sâu.
2. Có thể kết hợp trộn thuốc vi sinh BT với thuốc hóa học có bả độc mau phân hủy. Đối với đậu nành rau thì nên theo dõi mật số bướm mới xâm nhập vào ruộng để có thể phun thuốc sớm diệt bướm hoặc sâu non còn cạp ăn ngoài vỏ trái non trước khi đục vào trong trái. Nên thật cẩn thận trong việc chọn lọai thuốc và quyết định có nên phun hay không vì đây cũng là lọai đậu ăn trái tươi.
3. Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH 050EC hoặc PERAN 50EC để phòng trị.



Bọ xít

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
a. Bọ xít xanh thuộc họ Pentatomidae, bộ Hemiptera và có 2 loài phổ biến:
Bọ xít xanh Nezara viridula Linnaeus
Thành trùng có hình ngũ giác, màu xanh lục sáng, dài khoảng 12 mm. Hai bên góc vai có 2 chấm đen nhỏ, râu đầu 5 đốt với 2 đốt cuối màu đỏ nâu và to hơn các đốt chân râu. Bàn chân có 3 đốt, phủ nhiều lông tơ. Thành trùng sống lâu 1-2 tháng.
Trứng hình trụ tròn, màu vàng sáng, chuyển sang màu đỏ trước khi nở. Trứng đẻ thành khối xếp nhiều hàng ở mặt dưới phiến lá. Trứng nở trong vòng 5-7 ngày.
Ấu trùng có 5 tuổi, phát triển từ 18 - 28 ngày với kích thước và màu sắc thay đổi: tuổi 1 sống tập trung, tuổi 2 bắt đầu phân tán và có màu đỏ nâu, tuổi 3 chuyển dần sang màu xanh lục, tuổi 4 và 5 có màu xanh lục với mầm cánh phát triển.

Trứng, ấu trùng, thành trùng bọ xít xanh (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
Bọ xít xanh vai vàng Piezodorus rubrofasciatus Fabricius
Thành trùng có hình dạng tương tự như bọ xít xanh nhưng có một băng vàng vắt ngang ở phần trước của ngực. Vòng đời cũng tương tự như N. viridula.

Bọ xít xanh vai vàng đang bắt cặp (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
b. Bọ xít nâu dài, Riptortus spp. (Coreidae, Hemiptera)
Thành trùng có hình dạng thon dài, cơ thể có chiều dài từ 14 - 16,5 mm, chiều ngang từ 2 - 3 mm, màu nâu xanh, trên 2 có hai gai nhọn ở 2 bên, râu đầu màu đen. Dọc theo mép đùi sau về phía bụng có 1 hàng gai gồm 7 gai, trong đó có 4 gai phát triển. Đốt chày chân sau hơi cong về phía bụng. Thành trùng sống lâu và đẻ hàng trăm trứng. Trứng hình bán cầu, mới đẻ màu vàng xanh, khi sắp nở thành sậm, xếp thành ổ có nhiều hàng trên phiến lá. Ấu trùng có 5 tuổi, màu nâu sậm và phát triển trong vòng 2-3 tuần.
Bọ xít có thể xuất hiện sớm và chích hút trên đọt non, nhưng chủ yếu là giai đọan đã có trái, cả thành trùng lẫn ấu trùng đều chích hút trái non và cả khi trái đã già trong mùa mưa.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Nên trồng sớm họăc đồng lọat, luân canh với các cây khác không cùng ký chủ. Sử dụng thuốc hóa học nên lưu ý dến sự lưu bả độc trên trái đậu rau.
Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như BIAN 40EC để phòng trị.


Rệp đậu
Họ: Aphididae; Bộ Homopera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Gọi là rệp đậu vì đây là lọai rầy mềm không cánh, thường thấy bu thành đám quanh đọt hoặc bông và trái non để chích hút làm cho đọt bị quắn, bông bị rụng và trái bị lép. Có 2 lòai phổ biến và khác nhau về cây ký chủ:
- Aphis craccivora Koch: Rất phổ biến, tấn công đọt và trái non của hầu hết các lọai đậu - đặc biệt là đậu xanh, đậu đủa và cô-ve. Rệp đậu còn non có màu tím, khi trưởng thành có màu đen bóng, cũng không có cánh và đẻ thẳng ra con nên mật số có thể gia tăng rất nhanh, gây hại mau chóng. Chỉ khi nào hết thức ăn, mật số quá đông hoặc bị thiên địch tấn công nặng... chúng mới phát sinh dạng thành trùng có cánh để di chuyển đi tìm nguồn thức ăn mới.

Thành trùng, ấu trùng (Nguồn: NSW Agriculture), quần thể rầy mềm trên trái (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
- Aphis glycines Matsumura: Cơ thể màu xanh lục vàng, ngực và đầu có màu đen hay xanh lục đậm, bụng màu nhạt, dài từ 1,7 - 2 mm, rộng từ 0,7 - 0,9 mm. Râu màu trắng bẩn nhưng các đốt roi râu màu nâu đen, ngắn hơn cơ thể. Vòi chích hút kéo dài vượt khỏi đốt chậu chân giữa. Ống bụng màu nâu. Dạng không cánh có cơ thể màu vàng xanh đến vàng tươi, 2 mắt đen, râu ngắn hơn 1/2 thân mình và có màu trắng giống như chân, dài từ 1,5 - 2 mm, rộng từ 0,7 đến 1,2 mm. Các đặc điểm khác đều giống như dạng có cánh.
Chúng hút nhựa và thải phân lỏng còn chứa rất nhiều đường nên thường quyến rủ kiến đến ăn và bảo vệ chúng khỏi bị thiên địch tấn công. Điều nguy hiểm là chúng có thể truyền bệnh Khảm Vàng làm cho lá đậu co rúm và cây không ra trái.

Thành trùng (Nguồn: NSW Agriculture) và triệu chứng (Nguồn: University of Wisconsin)
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thường không phải phòng trừ gì cả vì chúng có rất nhiều thiên địch như các lòai bọ rùa, kiến sư tử (Chrysopidae, Neuroptera), các lòai dòi thuộc họ Syrphidae (Diptera)... Để ngăn ngừa việc truyền bệnh vi rút thì nên trồng sớm hoặc tìm cách lọai trừ cây bị bệnh.
Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như ACTARA 25WG để phòng trị.

 IV. SÂU HẠI CÀ CHUA:

Rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius
Họ: Aleyrodidae ; Bộ Cánh Đều: Homoptera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Rầy phấn trắng là loài có phổ kí chủ rất rộng gây hại trên nhiều loại cây trồng như cây bông vải, dưa bầu bí, rau màu các loại và nhiều loại cây trồng khác
Con trưởng thành dài 0.75-1.4 mm, sải cánh dài 1.1-2mm. Hai đôi cánh trước và sau dài bằng nhau. Toàn thân và cánh được phủ bởi một lớp phấn màu trắng. Mắt kép có một rãnh ngang chia thành hai phần gần giống hình số tám. Râu đầu có sáu đốt, chân dài và mảnh, bụng có chín đốt.
Sâu non màu vàng nhạt, khi mới nở có chân, bò dưới mặt lá, rồi ở cố định một chổ dưới mặt lá. Sau khi lột xác chuyển sang tuổi 2 thì sâu non không còn chân, có thể nhìn rõ mắt kép và râu đầu

Thành trùng, ấu trùng (Nguồn: Trần Văn Hai, ĐHCT), ấu trùng cận ảnh (Nguồn: NSW Agriculture)
Cả ấu trùng và thành trùng đều chích hút nhựa cây làm chết mô thực vật, và tiết nước bọt làm lan truyền mầm bệnh đặc biệt là virus gây bệnh xoăn lá cà chua.

Triệu chứng bệnh xoăn lá cà chua do virút
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Vệ sinh đồng ruộng, tỉa bỏ các lá ở gốc để vườn cây thông thoáng hạn chế nơi ẩn nấp của chúng.
Rầy phấn trắng có rất nhiều loài thiên dịch trong tự nhiên bao gồm các loài nấm kí sinh, ong kí sinh và cả các loài thiên địch ăn thịt
Có thể sử dụng các loại thuốc hoá học để diệt rầy phấn trắng như: Applaud 10WP, Baythroid 5SL, Trebon 10EC, Pegasus 500SC,… kết hợp với dầu khoáng.


Ruồi đục lá Liriomyza trifolii (Burgess)
Họ: Agromyzyiidae; Bộ Hai Cánh (Diptera)

KÝ CHỦ
Đây là loài côn trùng phá hại trên nhiều loại cây như bầu bí dưa leo dưa gan, cà chua, ớt, đậu nành, đậu trắng…
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng rất nhỏ, dài từ từ 1,3 - 1,5 mm, màu đen bóng, nhưng một phần cơ thể, gồm cả phiến mai trên ngực có màu vàng. Mắt kép màu đen bóng. Cánh trước có chiều dài khoảng 1,4 mm, rộng 0,60 mm. Cánh sau thoái hóa còn rất nhỏ, màu vàng nhạt. Bụng và chân có nhiều lông, chân màu vàng, đốt chày và đốt bàn màu đen, bàn chân 5 đốt, đốt cuối có 2 móng cong màu đen.
Trứng rất nhỏ, màu trắng hồng, tròn, đường kính khoảng 0,2 mm.
Ấu trùng có chiều dài khoảng 2 mm, màu vàng nhạt khi mới nở, sau chuyển thành màu vàng đậm. Cơ thể có 10 đốt, miệng dạng móc câu màu đen. Thời gian phát triển của ấu trùng từ 3 - 4 ngày.
Nhộng có chiều dài khoảng 1,5 mm, rộng 0,7 mm. Thời gian phát triển của nhộng từ 6 - 8 ngày.

Thành trùng ruồi đục lá (Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Thành trùng hoạt động mạnh từ 7 - 9 giờ sáng và từ 4 - 5 giờ chiều. Thành trùng cái dùng bộ phận đẻ trứng rạch mặt lá tạo nhiều lỗ. Trong số đó có một số lổ chứa trứng, chỉ khoảng 1%, phần lớn các lỗ còn lại dùng làm thức ăn cho thành trùng cái và đực do chất lỏng tiết ra từ vết chích. Các lỗ đục thường xuất hiện ở chóp lá hay dọc theo 2 bìa lá.

Triệu chứng ruồi đục lá trên lá cải bẹ xanh và dưa hấu (Nguồn: Trần Thị Ba, ĐHCT)
Ruồi gây hại cho cây bằng cách đục thành những đường ngoằn ngoèo ở mặt trên lá, lúc đầu đường đục nhỏ, càng lúc càng to dần cùng với sự phát triển của cơ thể ấu trùng. Đường đục xuất hiện ở cả hai mặt lá nhưng thấy rõ nhất là ở mặt trên lá. Khi trưởng thành, dòi đục thủng biểu bì chui ra ngoài và làm nhộng trên mặt lá hay trên các bộ phận khác của cây hoặc buông mình xuống đất làm nhộng.
Các vết đục khắp mặt lá làm cho lá bị khô, trái nhỏ, giảm phẩm chất của trái, nếu trầm trọng làm năng suất giảm.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
* Biện pháp canh tác:
+ Làm sạch cỏ chung quanh ruộng dưa trước khi xuống giống.
+ Cày sâu sau khi thu hoạch.
+ Áp dụng màn phủ nông nghiệp.
+ Xuống giống đồng loạt.
* Biện pháp sinh học:
Ngoài thiên nhiên ruồi có rất nhiều thiên địch. Nếu áp dụng thuốc trừ sâu nhiều sẽ làm cho mật số ruồi tăng cao và tạo thành dịch dễ dàng.
* Biện pháp hóa học:
Nếu mật số thiên địch trên 50% không cần áp dụng thuốc để trừ ruồi, nhưng nếu mật số thiên địch thấp, không thể khống chế mật số ruồi thì nên áp dụng thuốc khi cây con bắt đầu có lá mầm và lá thật đầu tiên. Ở những vùng ruồi có điều kiện nhân mật số nhanh thì cần áp dụng thuốc lại khi cần. Áp dụng thuốc nhóm gốc lân hoặc gốc cúc, kết hợp với sử dụng dầu khoáng.


Sâu xanh Heliothis armigera Hübner
Họ Ngài Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vải Lepidopera 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Đây cũng là loài sâu đục trái bắp và trái cà chua. Sâu có kích thước khá lớn, màu xanh lục với 2 sọc nâu mờ giữa lưng và 2 sọc trắng lớn chạy dọc 2 bên hông. Sâu thường thấy có chiều dài độ 20-30 mm, ẩn ở mặt dưới lá và ăn lủng lá thành nhiều lổ lớn. Sâu phát triển qua 5 tuổi, lâu 15-20 ngày rồi chui xuống đất để làm nhộng, hoặc trong trái hay lá khô. Bướm hoạt động ban đêm, đeo trứng rời rạc trên lá hoặc trái non và trứng nở sau 3-4 ngày. Bướm dài độ 20 mm, sải cánh rộng 35-40 mm, cánh trước màu vàng nâu với bìa cánh có vệt nâu đậm và 1 đốm đen ở giữa cánh, cánh sau màu trắng nhưng lại có 1 vệt đen lớn ở bìa cánh. Bướm sống lâu và đẻ 300-500 trứng, rải rác trên lá non hoặc bông, trái non.

Ấu trùng gây hại bắp, lá đậu, trái cà chua

Thành trùng, trứng sâu xanh (Nguồn: NSW Agriculture)
Thời gian phát triển và ăn phá của sâu lâu độ 2-3 tuần lể, và chu kỳ sinh trưởng độ 1,5-2 tháng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thường xuyên quan sát ruộng đậu, nhất là từ sau khi trồng đến 1 tháng tuổi lá chưa giao nhau, để phát hiện ổ trứng và kịp thời ngắt bỏ.
Sâu có khả năng kháng thuốc cao nên rất khó trị bằng các lọai thuốc sâu thông thường. Nên bắt sâu bằng tay kết hợp với việc phun thuốc, đặc biệt là lọai gốc cúc tổng hợp (Pyrethroids) vì có biệt tính cao lại mau phân hủy trong đất. Loài sâu này thường hay bị một loại siêu vi khuẩn (vi rút) thuộc nhóm NPV tấn công ở ngoài đồng.
Tránh trồng xen canh với bắp, cà chua, thuốc lá vì đều là cây ký chủ của chúng. Sau mỗi vụ nên xới đất rồi phơi ải một thời gian để diệt nhộng của sâu còn ẩn lại trong đất.
Khi cần thiết, dùng các loại thuốc như MATCH, CYPERAN để phòng trị.



Rầy mềm Aphis gossypii Glover
Họ: Aphididae; Bộ Homoptera

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có hai dạng:
Dạng không cánh: cơ thể dài từ 1,5 - 1,9 mm và rộng từ 0,6 - 0,8 mm. Toàn thân màu xanh đen, xanh thẩm và có phủ sáp; một ít cá thể có dạng màu vàng xanh.
Dạng có cánh: cơ thể dài từ 1,2 - 1,8 mm, rộng từ 0,4 - 0,7 mm. Đầu và ngực màu nâu đen, bụng màu vàng nhạt, xanh nhạt, có khi xanh đậm, phiến lưng ngực trước màu đen. Mắt kép to. Ống bụng đen.

Ấu trùng, thành trùng không cánh và có cánh (Nguồn: NSW Agriculture)
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI
Ấu trùng và thành trùng tập trung mặt dưới lá, nhất là đọt non, bông, chồi hút nhựa làm cho các phần ấy bị khô héo hoặc để lại những vết thâm đen trên lá.
Trên cây dưa , rầy gây hại trầm trọng nếu tấn công các dây chèo hay đỉnh sinh trưởng. Rầy mềm thường tập trung với số lượng lớn ở đọt non làm lá bị quăn queo và phân tiết ra thu hút nhiều nấm đen bao quanh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trái.
Đối với bầu bí trong giai đoạn có hoa nếu bị loài này tấn công với mật số cao thì hoa dễ bị rụng, nhất là vào thời kỳ cho trái non, gây hiện tượng rụng trái hay trái bị méo mó.
Trên cây bông vải, những dịch mật do rầy tiết ra rơi vào quả nang và lá đang mở ra sẽ là môi trường cho nấm mốc phát triển và gây khó khăn cho việc thu hoạch bông vải.
Ngoài ra, rầy còn là tác nhân truyền bệnh virus cho cây. Sau cùng làm cây bị mất sức, lùn và chết.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Nhặt và chôn vùi các phần có rầy gây hại.
Không nên bón nhiều phân đạm.
Rầy mềm nhân mật số rất nhanh nên thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phát hiện kịp thời và phòng trị đúng lúc thì cũng tương đối dễ diệt. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.
Vì rầy mềm truyền bệnh virus nên thuốc trừ sâu chỉ có thể diệt được rầy mà không hạn chế được bệnh, nhưng nếu áp dụng thuốc sớm, diệt được số lớn rầy ở giai đoạn đầu thì khả năng truyền virus của rầy không nhiều.
Sử dụng thuốc trừ sâu nên để ý đến quần thể thiên địch của rầy mềm.


Bọ rùa Epilachna vigintioctopunctata (Fabricius)
Họ Bọ Rùa (Coccinellidae); Bộ Cánh Cứng (Coleoptera)
KÝ CHỦ
Ngoài bầu, bí, dưa, loài bọ rùa này còn tấn công cả cà chua, đậu bắp, ớt, các loại đậu.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - SINH HỌC
Thành trùng có cánh màu đỏ cam, có 28 chấm đen trên cánh. Cơ thể có chiều dài từ 5 - 7 mm và rộng từ 4 - 6 mm. Thành trùng cái sống khoảng 51 ngày và thành trùng đực sống từ 40 - 45 ngày.
Trứng hình thoi, màu vàng, thường được đẻ thành từng khóm từ 9 - 55 cái ở mặt dưới lá và được xếp thẳng đứng với mặt lá. Trứng dài từ 1,2 - 1,5 mm. Một thành trùng cái có thể đẻ từ 250 - 1000 trứng trong thời gian từ 3 - 5 ngày. Thời gian một thành trùng cái đẻ 1 ổ trứng kéo dài 20 - 30 phút. Khi sắp nở trứng có màu vàng sậm. Trứng của loài này nở rất đồng loạt và có tỉ lệ nở từ 95 - 100%.
Ấu trùng có 4 tuổi, phát triển trong thời gian từ 16 - 23 ngày. Khi sắp nở, ấu trùng cắn đỉnh vỏ trứng rồi dùng cử động của chân để chui ra ngoài. Thời gian chui ra của một ấu trùng mất trung bình 30 phút. Sau khi nở, ấu trùng tập trung tại vỏ trứng từ 12 - 15 giờ và ăn hết vỏ trứng hay ăn các trứng chưa nở kịp hoặc không nở đến khi không còn trứng nào chúng mới phân tán tìm thức ăn. Ấu trùng màu vàng khi mới nở, lớn đủ sức màu đậm. Trên khắp mình có gai nhỏ màu nâu đậm mọc thẳng góc với da. Chi tiết trong từng tuổi của ấu trùng như sau:
Tuổi 1: cơ thể có chiều dài từ 1 - 1,2 mm và chiều rộng từ 0,5 - 0,6 mm; toàn thân màu vàng, trên thân có 6 hàng gai, phát triển từ 2 - 3 ngày, trung bình 2,9 ngày.
Tuổi 2: cơ thể có kích thước 2,1 x 0,9 mm; màu vàng, 6 hàng gai trên thân đã hiện rõ, phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,3 ngày.
Tuổi 3: cơ thể có kích thước 3,5 x 1,2 mm; màu vàng, các chi tiết khác giống như tuổi 2 và phát triển từ 2 - 4 ngày, trung bình 2,7 ngày.
Tuổi 4 kéo dài từ 4 - 5 ngày, trung bình 4,6 ngày. Cơ thể có kích thước khoảng 5 x 2 mm.
Nhộng màu vàng nhạt gần như trắng với nhiều đốm màu nâu đậm trên thân và chuyển sang vàng khi sắp vũ hóa. Nhộng có chiều dài từ 5 - 6 mm, rộng từ 3 đến 4 mm. Nhộng phát triển trong thời gian từ 2 - 7 ngày và thường được hình thành ở mặt dưới lá. Trước khi làm nhộng 1 ngày, ấu trùng nằm bất động, không ăn phá và màu sắc có thay đổi chút ít, từ vàng chuyển sang vàng nhạt. Ấu trùng gắn phần cuối bụng vào lá cây xong lột xác lần cuối để thành nhộng. Trên mình nhộng có vài điểm đen, trong đó hai đốm đen ở đầu nhộng rất rõ, phần cuối nhộng có phủ một lớp gai.
TRIỆU CHỨNG GÂY HẠI

Triệu chứng và thành trùng bọ rùa (Nguồn: NSW Agriculture)
Cả ấu trùng và thành trùng đều sống ở mặt dưới lá, cạp biểu bì và nhu mô diệp lục của lá, chỉ còn lại biểu bì trên và gân. Mật số cao bọ rùa có thể cạp ăn trụi lá trên cây và sau đó có thể tấn công tiếp phần ngọn, trái non và cuống trái. Ấu trùng có khả năng ăn mạnh hơn thành trùng, nhất là ấu trùng tuổi 4, ăn mạnh gấp 2 - 3 lần thành trùng.
BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
Thăm ruộng thường xuyên và có thể bắt ấu trùng, thành trùng và ổ trứng bằng tay hoặc phun các loại thuốc trừ sâu thông dụng để trị.