Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

NHU CẦU NƯỚC CỦA LÚA


Đối với cây lúa từ lâu đã có câu ca dao “ Nhất nước, nhì phân”. Điều đó nói lên nhu cầu nước của cây lúa rất lớn.

Cây lúa cần 400 - 450 đơn vị nước, để tạo được một đơn vị thân lá
Cây lúa cần 300 - 350 đơn vị nước để tạo được một đơn vị hạt.
Do vậy, ngoài sử dụng nước trời, xây dựng được hệ thống thuỷ lợi tốt là yếu tố quan trọng hàng đầu cho các vùng trồng lúa.

Ở các vùng trồng lúa, cây lúa được cung cấp nước bằng các nguồn sau:

Lượng mưa: Yêu cầu 900 - 1100 mm cho một vụ lúa. Mùa mưa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thường bắt đầu vào tháng 5 - 6 và kết thúc vào tháng 10 - 11. Ở các tỉnh miềm Trung mùa mưa muộn hơn, thường mưa nhiều vào tháng 11-12. Lượng mưa hàng năm ở Hà Nội là 1800 mm, ở Huế 2860 mm, Thành phố Hồ Chí Minh 1980 mm, hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu về nước của một vụ lúa. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có năm lượng mưa phân bố không đều, nhất là thời kỳ đầu và giữa vụ dễ gây ra hạn hán hoặc ngập lụt đối với sản xuất lúa.


Nước mưa còn mang theo và cung cấp khoảng 16 kg đạm vô cơ / ha, nguồn ôxy và làm thay đổi tiểu khí hậu trong ruộng lúa.



Nước sông, suối, ao, hồ, đầm ...: Lượng nước từ các nguồn này ngoài những nơi nước có thể tự chảy vào ruộng thì phải có hệ thống thuỷ lợi (tưới tiêu) tốt để chủ động cung cấp nước cho lúa (chống hạn). Tuy nhiên khi nước thừa thì phải thoát nước cho lúa (chống úng).

Nước phù sa từ các sông, đặc biệt là sông lớn như sông Hồng ( Đồng bằng Bắc Bộ), sông Cửu Long (Đồng bằng sông Cửu Long)... còn cung cấp lượng lớn chất dinh dưỡng từ nguồn nước phù sa cho cây lúa.

PHÒNG TRỊ BỆNH LÉP VÀNG

I. Mức độ xuất hiện trên đồng ruộng:
Xuất hiện rải rác hoặc theo từng vệt, dọc theo lối đi trong ruộng.
II. Tình trạng ruộng lúa:
Ruộng được bón phân đạm cao có bệnh nặng hơn các ruộng rải phân đạm theo nhu cầu cây lúa.
III. Tác nhân gây bệnh
Bệnh bắt đầu thể hiện trên bông lúa từ giai đoạn ngậm sửa đến vào chắc. Trên bông lúa có nhửng nhánh gié đứng thẳng trong khi các nhánh gié khác cong xuống. Các nhánh gié mắc bệnh (đứng thẳng) có mang nhiều hạt bị lép, nhưng vỏ trấu vẫn giữ máu sắc bình thường, không bị lem. Khi bông lúa chín, vỏ trấu của các hạt lép nầy vẫn có màu vàng.

Tách vỏ trấu của hạt lép vàng quan sát phôi nhủ hạt lúa: Nếu phôi nhủ có vết đen hoặc nâu: do vi khuẩn Pseudomonas sp. gây ra. Nếu phôi nhủ không có vết bệnh: bệnh có thể do nấm Gibberella fujikuroi (Fusarium moniliform) (gây bệnh lúa von) xâm nhiễm ở giai đoạn muộn gây ra.
IV. Cách chữa trị:
Bệnh do vi khuẩn gây ra sẽ lây lan thêm ra rất nhanh dọc theo đường đi, nếu không chữa trị. Trường hợp nầy cần pha nước vôi 10%, lấy nước trong phun lên ruộng lúa 2 lần cách nhau 4-5 ngày. Bệnh do nấm sẽ không lây lan thêm và cũng không có cách chữa trị.

NGỪA BỆNH CHÁY BÌA LÁ


I.Nguyên nhân gây bệnh bạc lá rất nhiều:

- Một số giống mẫn cảm với bệnh bạc lá như một số giống tạp giao và một số giống chất lượng.
- Do thời tiết nóng ẩm, mưa to gió lớn xảy ra trong thời kỳ lúa cần quang hợp cao.
- Do biện pháp canh tác làm đất không ngấu, cây lúa nhiễm bệnh vàng lá sau lập thu, bón thêm phân cấp cứu vàng lá, cây lúa ra lớp rễ mới phát triển lá non nên gặp mưa dông dễ nhiễm bệnh bạc lá.
- Bệnh thường mẫn cảm với lượng đạm dư trong lá, những ruộng bón đạm nhiều, bón muộn, bón lai rai, bón không cân đối giữ đạm, lân và kaly, những ruộng trũng hẩu dồn đạm cuối vụ, do biện pháp thâm canh gieo cấy, chăm bón không đúng kỹ thuật.


II. Đặc điểm bệnh bạc lá:

- Bệnh xuất hiện ở mép lá, cháy dọc mép lá từ đầu chóp lá cháy xuống (còn gọi là bệnh cháy bìa lá)
- Bệnh lan theo chiều gió.
- Buổi chiều những giọt keo vi khuẩn bạc lá khô đọng lại ở mép lá màu vàng, nhỏ như "trứng tôm".
- Đêm sương: giọt keo vi khuẩn này tan ra, chảy chạy dài theo mép lá, và gió làm xây xát lan sang những lá khác.
- Bệnh nặng: lá lúa cháy đặc biệt lá đòng cháy làm lúa lép lửng cao, giảm năng suất nghiêm trọng.
- Giống bị bệnh nặng: BT7, Tạp giao




III. Biện pháp phòng tránh bệnh bạc lá:

Để khắc phục tình trạng trên, phòng tránh bệnh bạc lá ở lúa mùa, ngoài các biện pháp canh tác đại trà, cần tập trung vào một số điểm sau:

1. Chọn giống chống chịu tốt với bệnh bạc lá để đưa vào gieo cấy ở vụ mùa.

2. Tuân thủ về kỹ thuật trong biện pháp thâm canh như:

- Để đất nhanh mục nên bón vôi từ 15- 20 kg/1000m2, làm đất phải đủ ngấu để tránh ngộ độc rễ nhiễm bệnh vàng lá khi lúa đang đẻ sau tiết lập thu.
- Chỉ cấy mạ đủ tuổi, chăm bón sớm và cân đối tập trung vào giai đoạn đầu vụ. Nên bón phân NPK chuyên dùng, phân có hàm lượng kaly cao, chú ý bón nặng đầu, nhẹ cuối. Ưu tiên bón kaly cao cho các giống hay bị nhiễm bạc lá. Những chân ruộng hẩu hay dồn đạm cuối vụ: cần giảm bón đạm, bón tăng lân và kali cho cây cứng, lá dầy đỡ bị bệnh bạc lá cuối vụ. Đặc biệt giống chất lượng, nên cấy lùi thời vụ cuối tháng 7 (25-30/7) để lúa trỗ sau 25/9 đến trước 5/10, sát tiết hàn lộ nhiệt độ giảm, thời tiết mát, sẽ đỡ bạc lá hơn. Sử dụng bón phân cho lúa chất lượng, lúa lai là bón lót sâu, bón thúc sớm ngay sau cấy 7-10 ngày: hết cả đạm và kaly .Không bón kaly giai đoạn lúa đứng cái vì cây lại huy động đạm lên dễ bạc lá.

3. Trung tuần tháng 8 có đợt sâu đục thân, sâu cuốn lá hại lúa, đầu tháng 9 cũng có lứa sâu cuốn lá và đục thân hại lá đòng, khi phun thuốc trừ sâu cần bổ sung thêm thuốc phòng chống bạc lá bằng thuốc sasa, hoặc xanthomic, ở cả 2 đợt này cho những ruộng hay bị bệnh và những giống hay nhiễm bệnh bạc lá. Nên phun phòng bệnh bạc lá ngay sau khi có đợt mưa dông lớn, khi ruộng chưa xuất hiện vết bệnh trên lá, bằng thuốc: 3kg vôi hòa tan lấy phần nước trong + 10cc Tilt super cho bình 16l phun 3 bình / 1000m2

Thực hiện được các điểm trên chắc chắn đã hạn chế phần lớn bệnh bạc lá đối với lúa vụ mùa. Sản xuất nông nghiệp muốn có năng suất cao phải chủ động ngay từ đầu vụ. Đặc biệt bệnh bạc lá khi đã xuất hiện mới xử lý thì hiệu quả không cao, vì vậy chúng ta cần áp dụng liên hoàn các biện pháp kỹ thuật thâm canh ngay từ đầu vụ mới giành được thắng lợi.